Ủy thác thi hành án dân sự
Thực tiễn thi hành án dân sự cho thấy không ít những trường hợp bản án, quyết định có liên quan đến nhiều người phải thi hành án ở những nơi khác nhau, tài sản, thu nhập của người phải thi hành án ở những nơi khác nhau hoặc trong quá trình thi hành án người phải thi hành án chuyển đi nơi khác. Đối với những trường hợp này, để đảm bảo hiệu quả của thi hành án dân sự cần phải uỷ thác thi hành án.
1. Về ủy thác thi hành án quy định tại Điều 55 Luật Thi hành án dân sự
Quy định tại Điều 55 được hiểu rằng việc ủy thác là trách nhiệm của cơ quan THADS có thẩm quyền, trong thời hạn nhất định kể từ ngày xác định có căn cứ phải ra quyết định uỷ thác và chuyển hồ sơ cho cơ quan thi hành án nơi có điều kiện tổ chức thi hành án để tổ chức thi hành.
Thứ nhất, tại khoản 1 quy định “Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự phải uỷ thác thi hành án cho cơ quan Thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở”. Chữ “Phải” ở đây để khẳng định các nhà làm Luật đã quy định dứt khoát Thủ trưởng cơ quan Thi hành án phải hành động ngay trong việc uỷ thác, không thể chậm trễ, chần chừ bởi quy định tại khoản 3 Điều 55 quy định: Việc ủy thác phải thực hiện trong thời hạn 05 ngày làm việc.
Tuy nhiên trên thực tế, việc thực hiện uỷ thác thường bị chậm về thời gian theo quy định bởi nhiều nguyên nhân, trong đó các nguyên nhân khách quan như là lượng việc quá tải cho cán bộ thụ lý, thông thường các Chi cục Thi hành án bố trí một đến hai đồng chí nên hàng tháng toà án chuyển giao các bản án quyết định sang cho cơ quan thi hành án cùng cấp thông thường là rất nhiều có thể lên đến vài hàng chục bản án, quyết định nên thường chậm về thời gian ra quyết định bởi theo quy định có quá nhiều công đoạn (rà soát bản án về hình thức, vào sổ nhận bản án, vào sổ thụ lý và ra quyết định thi hành án, trình thủ trưởng phê duyệt và giao cho chấp hành viên). Đối với đơn vị nhận uỷ thác, căn cứ các quy định trên nên khi hồ sơ quá thời hạn 05 ngày, thường bị trả lại nơi uỷ thác, trong khi nơi uỷ thác không thể khắc phục được vi phạm, dẫn đến uỷ thác lòng vòng mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân.
Thứ hai, việc uỷ thác thi hành án đã thực hiện nhiều năm, nhưng hiện nay nhận thức và áp dụng pháp luật về vấn đề uỷ thác ở mỗi nơi có khác nhau. Trong khi các văn bản hướng dẫn không đề cập. Thực tiễn hiện nay phổ biến có ba trường hợp:
- Uỷ thác thẳng.
- Thụ lý, ra quyết định thi hành án rồi mới uỷ thác.
- Việc uỷ thác theo đúng quy định.
Trường hợp uỷ thác thẳng là trường hợp ngay sau khi nhận bản án, quyết định của Toà án, người phải thi hành án có nơi cơ trú hoặc tài sản ở huyện khác hoặc tỉnh khác thì cơ quan thi hành án nhận bản án sơ thẩm ra quyết định uỷ thác ngay (không qua thụ lý, không ra quyết định thi hành án). Với nhận thức mặc dù thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án khi nhận bản án sơ thẩm (thẩm quyền theo lãnh thổ) nhưng ngay trong bản án đã ghi rõ nơi cơ trú (hoặc nơi có tài sản) không thuộc thẩm quyền nên uỷ thác thẳng mà không cần phải thụ lý và ra quyết định thi hành án. Thuận lợi trong trường hợp này là kịp thời, không mất thời gian, tiết kiệm được chi phí, nhưng cũng có bất lợi là hồ sơ uỷ thác kèm theo bản án chính (bản án có đóng dấu của toà án) nếu uỷ thác bằng hình thức gửi bưu điện, có thể bị thất lạc (trường hợp này không hiếm trên thực tế) thì cơ quan uỷ thác khó có thể phục hồi (bởi không còn tài liệu nào được lưu lại) và cơ quan nhận uỷ thác không nhận được nên cũng không biết, quyền lợi của các đương sự bị “Treo”. Mặt khác, vì uỷ thác thẳng (không ra quyết định thi hành án) nên không có hồ sơ cũng như việc theo dõi quản lý loại việc này không chặt chẽ và khi uỷ thác thẳng không được tính vào tỉ lệ giải quyết việc và giá trị của đơn vị cũng như cá nhân chấp hành viên.
Trường hợp trước khi uỷ thác vẫn thụ lý và ra quyết định là trường hợp ngay sau khi nhận bản án, quyết định của Toà án, người phải thi hành án có nơi cơ trú hoặc tài sản ở huyện khác hoặc tỉnh khác thì cơ quan thi hành án nhận bản án sơ thẩm vẫn thụ lý và ra quyết định thi hành án theo các trường hợp thông thường sau đó ra quyết định thu hồi (toàn bộ hoặc từng phần) và ra quyết định uỷ thác. Với nhận thức việc ra thụ lý và ra quyết định thi hành án là đúng thẩm quyền theo quy định pháp luật. Thuận lợi trong trường hợp này là quản lý chặt chẽ đầu vào của cơ quan thi hành án, có thể khắc phục được ngay khi cơ quan thi hành án không nhận được uỷ thác; trong trường hợp này chỉ tiêu được giao được tính vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân cũng như tập thể, nhưng việc thực hiện quá rườm rà, mất thời gian, chi phí và công sức.
Trường hợp thứ ba: Theo bản án người phải thi hành án có nơi cơ trú tại địa phương thuộc thẩm quyền của Chi cục thi hành án ra quyết định thi hành án, qua kết quả xác minh cho thấy người phải thi hành án đã chuyển nơi cơ trú đến địa phương khác. Căn cứ kết quả xác minh thì uỷ thác đến nơi người phải thi hành án đang cư trú mới, đây là trường hợp thông thường và không có gì vướng mắc.
Thứ ba, theo quy định tại khoản 1: “Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự phải uỷ thác thi hành án cho cơ quan Thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở”. Việc xác định nơi cơ trú của đương sự được hiểu đơn giản là nơi có hộ khẩu của đương sự theo ghi nhận của bản án mà các cơ quan thi hành án mà chưa dẫn chiếu Luật cư trú 2006 để hiểu đầy đủ:
“1. Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.
Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.
Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú.
2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống.”
Như vậy, theo dẫn chiếu của Luật Cư trú thì nơi cư trú của công dân nói chung và của đương sự trong thi hành án dân sự nói riêng rất rộng. Tuy nhiên, hiện nay khi thực hiện việc uỷ thác, nơi uỷ thác và nơi nhận uỷ thác chỉ bó hẹp theo phần mở đầu của bản án, quyết định của Toà án (gồm tên tuổi, nơi tạm trú, nơi thường trú hoặc nơi đăng ký hộ khẩu…). Vì vậy, để việc uỷ thác đúng pháp luật thì phải hiểu đầy đủ khái niệm nơi cư trú của công dân để nơi uỷ thác phải kịp thời xác minh đầy đủ chính xác của đương sự trước khi uỷ thác, kể cả chỗ ở hợp pháp (nơi thuê, nơi mượn hoặc nơi ở nhờ…).
Hiện tượng uỷ thác lòng vòng hoặc từ chối nhận nhận uỷ thác diễn ra không phải là hiếm gặp mà không có điểm dừng bởi quy định pháp luật về vấn đề này cũng chưa rõ ràng, còn quá chung chung.
2. Thẩm quyền uỷ thác thi hành án quy định tại Điều 56 Luật Thi hành án dân sự
Trong phạm vi Điều 56 quy định cụ thể về thẩm quyền uỷ thác của các cơ quan THADS. Cần lưu ý, tại điểm a khoản 1 Điều này cũng phải được hiểu vừa là thẩm quyền uỷ thác đi và cũng vừa là thẩm quyền nhận uỷ thác của cơ quan THADS cấp tỉnh.
Cơ quan THADS khi thực hiện việc uỷ thác cần bám sát và thực hiện đúng quy định tại Điều 56 vì nếu uỷ thác không đúng thẩm quyền sẽ là căn cứ để cơ quan thi hành án nhận uỷ thác gửi trả lại hồ sơ uỷ thác theo quy định tại khoản 2 Điều 57. Điều đó làm cho việc thi hành án bị kéo dài và mục đích, ý nghĩa của việc uỷ thác sẽ không đạt được.
3. Trình tự, thủ tục và trách nhiệm của cơ quan thi hành án đã uỷ thác và cơ quan thi hành án nhận uỷ thác quy định tại Điều 57 Luật Thi hành án dân sự
Điều 57 quy định về trình tự, thủ tục và trách nhiệm của cơ quan thi hành án đã uỷ thác và cơ quan thi hành án nhận uỷ thác. Một vấn đề hiện nay nhiều cơ quan thi hành án hiểu không đúng tinh thần điều luật dẫn đến chưa thực hiện đúng trách nhiệm của mình.
Trong thực tiễn thực hiện việc uỷ thác, một số cơ quan thi hành án khi nhận hồ sơ uỷ thác đã không thụ lý và trả lại cơ quan thi hành án đã uỷ thác với lý do trong bản án có nhiều khoản phải thi hành, trong đó có khoản tiêu huỷ tang vật thì chỉ khi nào cơ quan thi hành án thi hành xong khoản tiêu huỷ tang vật mới được uỷ thác khoản còn lại, cách hiểu như vậy là không đúng với quy định.
Theo tinh thần của điều luật trên thì đối với những tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản uỷ thác, thì cơ quan thi hành án mới cần phải xử lý trước khi thực hiện việc uỷ thác. Các tài sản có liên quan đến khoản uỷ thác trong quy định trên là các trường hợp tài sản đã được tuyên kê biên hoặc được tuyên hoàn trả cho đương sự nhưng dùng để đảm bảo thi hành án. Còn đối với khoản tiêu huỷ tang vật không có liên quan đến các khoản phải thi hành khác. Do đó cơ quan THADS có thể thực hiện ngay việc uỷ thác mà không cần phải chờ tiêu huỷ tang vật xong. Các cơ quan thi hành án nhận uỷ thác cần lưu ý thực hiện và không được trả lại hồ sơ uỷ thác mà phải tiếp nhận và tổ chức thi hành theo đúng quy định.
Nhìn chung, vấn đề uỷ thác THADS là một trong những quy định nhằm làm giảm bớt chi phí của nhà nước và của đương sự, đồng thời làm tăng hiệu quả của việc tổ chức thi hành bản án, quyết định bởi vì cơ quan thi hành án nhận uỷ thác là cơ quan có điều kiện thuận lợi và dễ dàng hơn để thi hành vụ việc. Tuy nhiên, vấn đề uỷ thác thi hành án cần phải được hiểu và thực hiện đúng quy định của pháp luật mới phát huy được hết vai trò và ý nghĩa của nó. Việc uỷ thác cũng tạo cơ sở cho các cơ quan THADS né tránh, đùn đẩy việc thi hành án cho cơ quan THADS nơi khác ngay khi căn cứ để uỷ thác cũng chưa được xác định rõ ràng.
Trên đây là tư vấn của Khoa Tín về “Đánh giá quy định của pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự“.
Trường hợp Quý khách hàng có vấn đề chưa rõ hoặc cần phải trao đổi thêm, vui lòng gọi ngay cho chúng tôi theo số 0983.533.005 để được tư vấn miễn phí.
Trân trọng./.
Tin Tức mới nhất