Phân tích nội dung của yếu tố tự do di chuyển lao động lành nghề

1. Cơ sở pháp lý
Tự do di chuyển lao động có tay nghề là một trong năm yếu tố cốt lõi nhằm xây dựng một thị trường lao động thống nhất nằm trong nội dung liên kết của AEC, có nền tảng từ Hiệp định Khu vực tự do thương mại ASEAN. Tuy nhiên, Hiệp định này không quy định cụ thể về di chuyển lao động mà chỉ ghi nhận trong phạm vi thương mại dịch vụ nói chung. Cơ sở pháp lý của tự do di chuyển lao động có tay nghề của ASEAN được ghi nhận cụ thể trong các văn bản pháp lý sau đây:
(i) Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ năm 1995 (AFAS) và Nghị định thư năm 2003
Thông qua các kết cấu và phương pháp tiếp cận của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), Hiệp định AFAS đưa ra nguyên tắc chung để thiết lập các thoả thuận công nhận tay nghề tương đương cụ thể, nhằm tập trung và hài hòa hóa các ngành dịch vụ. Điều 5(1) Hiệp định xác định nguyên tắc: “Mỗi quốc gia có thể công nhận trình độ giáo dục, kinh nghiệm, các yêu cầu, giấy phép và chứng nhận được cấp ở một nước khác với mục đích cấp phép và chứng nhận cho người cung cấp dịch vụ”.
Tuy nhiên, do Hiệp định AFAS chỉ cho phép một số bên cung cấp dịch vụ cá nhân di chuyển tạm thời, nên các cam kết thường bị giới hạn dẫn đến kết quả đạt được còn rất khiêm tốn. Chính vì vậy, ASEAN đã quyết định sửa đổi Hiệp định AFAS bằng Nghị định thư năm 2003. Nghị định thư năm 2003 đã chấp nhận Công thức ASEAN – X; theo đó, mỗi quốc gia, trên tinh thần tự nguyện, có thể cho phép hai hay nhiều quốc gia thành viên tiến hành đàm phán, chấp thuận tự do hóa thương mại dịch vụ trong những lĩnh vực cụ thể mà các nước khác có thể tham gia theo các thỏa thuận sau đó khi phù hợp với điều kiện gia nhập.
(ii) Hiệp định khung ASEAN về hội nhập các ngành ưu tiên năm 2003
Hiệp định này được ký kết nhằm tạo điều kiện cho quá trình hội nhập từng bước, nhanh chóng và có hệ thống. Theo đó, những ngành ưu tiên được xác định là du lịch hàng không, công nghệ thông tin điện tử, y tế, du lịch và logistics. ASEAN cam kết tự do hóa đầy đủ các lĩnh vực ưu tiên vào cuối năm 2010, ngành dịch vụ logistics vào năm 2013, tất cả các dịch vụ khác – cuối năm 2015.
(iii) Hiến chương ASEAN năm 2007
Với Hiến chương năm 2007, ASEAN khẳng định quyết tâm “xây dựng một thị trường và cơ sở sản xuất duy nhất với sự ổn định, thịnh vượng, khả năng cạnh tranh và liên kết kinh tế cao, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, bao gồm sự chu chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ và dòng đầu tư; di chuyển thuận lợi của các doanh nhân, những người có chuyên môn cao, những người có tài năng và lực lượng lao động và sự di chuyển tự do hơn các dòng vốn”.
Sau đó, Hiến chương ASEAN năm 2007 đã cụ thể hóa các mục tiêu nêu trên với Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC và Lộ trình chiến lược AEC năm 2007. Đồng thời, Hiến chương nêu ra các hành động cần phải thực hiện hướng tới sự hài hòa và tiêu chuẩn hóa tạo điều kiện cho di chuyển lao động có tay nghề trong khu vực.
(iv) Tuyên bố ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của người lao động di trú Cebu năm 2007
Tuyên bố Cebu năm 2007 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ lao động một cách công bằng và thích hợp.
(v) Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân năm 2012
Dựa trên Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC, Hiệp định năm 2012 tạo ra cơ chế hiệu quả để tiếp tục tự do hóa và tạo thuận lợi cho sự di chuyển thể nhân hướng tới tự do lưu thông của lao động có tay nghề trong ASEAN thông qua hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan không giới hạn đối với thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, xuất nhập cảnh và lao động
(vi) Các thoả thuận công nhận tay nghề tương đương của ASEAN về lao động kỹ năng (ASEAN Mutual Recognition Arrangements) trong một số lĩnh vực dịch vụ
Mỗi quốc gia có thể công nhận giáo dục, kinh nghiệm, các yêu cầu, giấy phép và chứng nhận được cấp ở một nước khác. Đây chính là công cụ chính để di chuyển lao động có tay nghề trong ASEAN, các quốc gia có thể yêu cầu các ứng viên phải đạt được các tiêu chuẩn. Tuy nhiên, điều này sẽ đặt ra các vấn đề sau đó do có sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các nước ASEAN.
Theo mục tiêu của AEC, có tám ngành nghề chuyên môn ưu tiên tạo thuận lợi tự do di chuyển và quyền tự do làm việc tại các nước trong khu vực ASEAN Do mỗi ngành nghề chuyên môn có những đặc tính của riêng mình nên cơ chế thực hiện khác nhau, thông qua 8 thỏa thuận.
Ngoài ra, ASEAN cũng đã ký Thỏa thuận khung thừa nhận lẫn nhau về trình độ khảo sát vào ngày 19/11/2011 tại Singapore nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn khổ cho các nước ASEAN đã sẵn sàng tham gia vào các cuộc đàm phán song phương và đa phương về thừa nhận lẫn nhau cũng như thúc đẩy trao đổi kinh nghiệm. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có một thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau song phương hay đa phương nào được đưa ra trong lĩnh vực này.
Với những cơ sở pháp lý nêu trên, có thể khẳng định rằng, tự do di chuyển lao động tại ASEAN chỉ bao gồm tự do lưu thông lao động có kỹ năng mà không bao gồm lao động không lành nghề hay lao động phổ thông.
2. Mục tiêu
Với việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, ASEAN đã đạt được một dấu mốc quan trọng trong quá trình hội nhập chính trị, kinh tế và văn hóa ngày càng tăng của khu vực. Như đã đề ra trong Kế hoạch chi tiết kinh tế ASEAN năm 2007, AEC tìm cách “biến ASEAN thành một khu vực có sự luân chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có kỹ năng và dòng vốn tự do hơn”. Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong việc tự do hóa và bình thường hóa các tiêu chuẩn của khu vực trong hầu hết các lĩnh vực này, nhưng việc thiết lập sự di chuyển tự do của lao động có tay nghề lại bị tụt hậu đáng kể.
Mặc dù ASEAN đã nêu rõ mục tiêu thúc đẩy dịch chuyển lao động có kỹ năng, các chính sách hiện tại không chỉ theo sau Liên minh châu u, nơi tự do đi lại về cơ bản không bị cản trở, mà còn các hiệp định thương mại khu vực ít tham vọng hơn như Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Cộng đồng Caribe (CARICOM). Việc thiếu một khuôn khổ khu vực gắn kết, các chính sách theo chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa bảo hộ cũng như chính trị tầm thường sẽ cản trở sự dịch chuyển lao động có kỹ năng của ASEAN. Tuy nhiên, người sử dụng lao động vẫn có thể tận dụng các chính sách tạo điều kiện cho việc thuê lao động có kỹ năng trong một số lĩnh vực nhất định để giải quyết tình trạng thiếu lao động có kỹ năng thường xuyên xảy ra ở các nước ASEAN.
3. Phương thức thực hiện tự do hoá
ASEAN sẽ tạo điều kiện cho sự tự do di chuyển của lao động có tay nghề cao thông qua:
– Cho phép nhập cảnh và tạo điều kiện thuận lợi trong cấp thị thực (visa) và di chuyển của các chuyên gia và lao động có tay nghề cao tham gia vào thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư.
– Tăng cường hợp tác giữa các thành viên Mạng lưới các trường đại học ASEAN (ASEAN University Network – AUN) để tạo thuận lợi cho sinh viên và cán bộ các trường đại học trong đi lại, học tập và làm việc trong khu vực.
– Phát triển các năng lực cốt lõi, trình độ và kĩ năng của các giảng viên đại học trong các nghề nghiệp liên quan đến các lĩnh vực ưu tiên hội nhập của ASEAN và các lĩnh vực dịch vụ khác.
– Tăng cường khả năng nghiên cứu của các quốc gia thành viên về nâng cao trình độ và kĩ năng của người lao động.
– Phát triển mạng lưới thông tin thị trường lao động giữa các nước thành viên ASEAN.
Dịch chuyển lao động có kỹ năng là cần thiết để thực hiện hiệu quả tự do hóa dịch vụ và tự do hóa FDI cũng như một mục tiêu để hội nhập kinh tế ASEAN sâu rộng hơn. Hơn nữa, khi ngày càng có nhiều quốc gia ASEAN nỗ lực tiến lên nấc thang công nghệ, tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ và FDI là không đủ, và một nhóm lớn hơn các chuyên gia và nhân lực có kỹ năng trở nên cần thiết. Cho đến thời điểm đó khi giáo dục và đào tạo trong nước các tổ chức có khả năng cung cấp nhân lực trình độ cao cần thiết, các quốc gia sẽ phải phụ thuộc vào “tài năng nước ngoài”. Ngay cả khi có đủ nguồn cung trong nước, vẫn cần tài năng nước ngoài, vì họ sẽ cung cấp sự cạnh tranh, kích thích và sức mạnh tổng hợp để cải thiện số lượng, chất lượng và năng suất của nhân tài trong nước. Một số quốc gia, đặc biệt là Singapore và ở mức độ thấp hơn, Malaysia coi tài năng nước ngoài như một sự nâng cấp và là công cụ cạnh tranh, nâng cao vai trò của họ với tư cách là trung tâm giáo dục và y tế, đồng thời có các chính sách tích cực để thúc đẩy dòng chảy của các chuyên gia nước ngoài và nhân lực có tay nghề cao. Tuy nhiên hầu hết các nước ASEAN, vẫn chưa rời bỏ các chính sách, quy định và thực hành nhằm vào bảo vệ các chuyên gia và công nhân lành nghề trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài.
Hợp tác hiệu quả giữa mạng lưới các trường đại học ASEAN về tính di động của sinh viên và nhân viên vẫn còn hạn chế, phản ánh sự khác biệt rõ rệt trong chương trình giảng dạy và tiêu chuẩn giữa các tổ chức, thiếu các “mô hình vai trò” của ASEAN và nguồn lực tài chính hạn chế cho trao đổi sinh viên và nhân viên. Hợp tác và trao đổi có xu hướng với các trường đại học và các tổ chức từ các nước tiên tiến của Bắc Mỹ, Tây Âu, Úc và Nhật Bản thay vì nội khối ASEAN. Phương tiện giảng dạy trong quốc gia thường là ngôn ngữ quốc gia. Sử dụng nhiều hơn tiếng Anh như một phương tiện hướng dẫn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi sinh viên và nhân viên giữa các nước ASEAN, và trong quá trình đạt được sự công nhận rộng rãi hơn về trình độ học thuật và chuyên môn của ASEAN. Các tổ chức cần tăng gấp đôi nỗ lực của mình để đạt được sự hợp tác và hội nhập trong giáo dục và áp dụng các chính sách giữa các quốc gia sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi sinh viên và nhân viên, và cuối cùng là sự di chuyển của những người lao động có tay nghề cao. Sẽ rất hữu ích nếu ASEAN thông qua phối hợp các phương pháp tiếp cận để nâng cao hiệu quả của các cơ sở giáo dục và đào tạo của họ trong việc cung cấp các kỹ năng cần thiết cho thị trường lao động.
MRA dường như là công cụ chính để dịch chuyển lao động có kỹ năng trong ASEAN. Tuy nhiên, thương lượng để được công nhận là một quá trình phức tạp và tốn nhiều thời gian do sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các nước ASEAN.

Trên đây là tư vấn của Luật Khoa Tín về: “Phân tích nội dung của yếu tố tự do di chuyển lao động lành nghề

Trường hợp Quý khách hàng có vấn đề chưa rõ hoặc cần phải trao đổi thêm, vui lòng gọi ngay cho chúng tôi theo số 0983.533.005 để được tư vấn miễn phí.

Trân trọng./.